Một số loài Hình tượng loài chim trong văn hóa

Một số loài chim (bao gồm cả gia cầm) hiện diện trong nhiều nên văn hóa mang nhiều hàm nghĩa biểu trưng:

Đại bàng

Đại bàng đầu trắng hay còn gọi là đại bàng hói được chọn làm biểu tượng của nước Mỹ. Hình ảnh đại bàng đầu trắng dang rộng đôi cánh ngày nay xuất hiện phổ biến trên quốc huy, con dấu Tổng thống và đồng dollar. Từ thời thượng cổ, nhân loại đã tôn vinh hình tượng đại bàng vì vẻ uy nghi của nó. Hình ảnh đại bàng là biểu tượng của sự sáng suốt, lòng quả cảm và quyền lực. Trên không trung, đôi cánh đại bàng xoải rộng phô bày mãnh lực cùng ý chí tự do. Đại bàng từng được dùng làm biểu tượng sức mạnh vô địch của đế chế La Mã cổ đại. Thời Trung cổ châu Âu, đại bàng cũng hiện diện trên khiên, triện của các Hoàng đế mang tâm hồn chinh phục như Charlemagne (Đức) hay Napoleon (Pháp).

Đại bàng đầu hói, loài chim biểu tượng của Hoa Kỳ

Đại bàng đầu trắng thường sống ở những nơi có nguồn thức ăn dồi dào như rừng rậm, khi trưởng thành, đại bàng đầu trắng có thể có sải cánh dài khoảng 1,7 m. Tốc độ bay của nó vào khoảng 55 đến 70 km/h nhưng khi bổ nhào, nó có thể đạt 120 km/h đến 160 km/h. Với vẻ ngoài dũng mãnh, sải cánh dài, cặp mắt nhanh nhạy và bộ vuốt cực khỏe, đại bàng đầu trắng hầu như không có đối thủ trong tự nhiên ở vùng Bắc Mỹ, vì thế chúng trở thành biểu tượng cho sức mạnh và sự thống trị của nước Mỹ mà ngày nay là tuong trưng cho uy thế không lực Huê Kỳ vốn là bá chủ bầu trời.

Đại bàng đầu trắng còn thể hiện cho sự tự do vì chúng sống trên các đỉnh núi cao, một mình bay lượn giữa vút ngàn thiên nhiên, với chúng sự tự do là không có giới hạn, sải cánh tung bay trên những bình nguyên bao la của thảo nguyên Bắc Mỹ, trong cuộc nội chiến Mỹ, khi những trận chiến nổ ra vào buổi sáng sớm, âm thanh dữ dội của cuộc chiến đã đánh thức những con đại bàng đầu trắng đang ngủ ở trên cao, chúng đã bay ra khỏi tổ và lượn quanh trên đầu quân lính, thể hiện tâm trạng bằng những tiếng kêu khóc đinh tai những người chứng nói rằng chúng đang gào thét lên cho tự do cho dù đây chỉ là sự ẩn dụ.

Đại bàng đầu trắng có tên gọi như vậy vì chúng có thân màu nâu nhưng đặc biệt phần lông đầu và đuôi lại có màu trắng. Trong tiếng Anh–Mỹ đại bàng đầu trắng được gọi là ‘bald eagle’ là ‘đại bàng đầu hói’, cái tên xuất phát từ ý nghĩa cổ hơn và giá trị lớn hơn đó chính là sự khôn ngoan (những người hói đầu thường được cho là khôn và già), có tầm vóc và sức mạnh hơn, chúng đã trở thành biểu tượng cho một quốc gia tự do trong từ ngữ và ý chí, đem đến cơ hội để vươn rộng đến những khoảng không rộng lớn trong tương lai.

Con gà tây từng được cân nhắc làm biểu tượng của Hoa Kỳ là đối thủ của đại bàng đầu hói. Người cổ súy cho ý tưởng này là Benjamin Franklin, một trong những quyết định gây nhiều tranh cãi là việc chọn con vật biểu tượng quốc gia. Benjamin Franklin thích hình ảnh con gà tây bản địa, ca ngợi sự gan dạ của nó. Ông đã từng viết trong một lá thư: Về phần cha, cha ước rằng con đại bàng đầu hói đã không được chọn để đại diện cho quốc gia của chúng ta. Nó là một loài chim có đạo đức tệ hại hơn nữa còn là một kẻ hèn nhát. Một chú chim đớp ruồi bé nhỏ cũng có thể tấn công và đuổi nó khỏi lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, đa số các phái đoàn lại ưng ý hình tượng con đại bàng đầu trắng hơn.

Lý do là vì chúng là loài chim đặc biệt chỉ có ở Bắc Mỹ và các nhà lập quốc muốn so sánh quốc gia mới tạo lập của mình với Đế chế La Mã vĩ đại khi xưa vốn cũng sử dụng hình tượng đại bàng. Quốc hội lục địa Đã chọn đại bàng làm biểu tượng quốc gia, người ta quay sang tìm cách vẽ mẫu quốc huy. Sau nhiều điều chỉnh, sửa đổi, họ chọn bản sơ mẫu của Charles Thomson. Trên quốc huy Hoa Kỳ, chân phải con đại bàng gắp nhành ô liu, chân trái ngậm một nắm 13 mũi tên (tượng trưng cho 13 tiểu bang khởi thủy). Giữa những năm 1916-1945, trên lá cờ Tổng thống Mỹ thể hiện một con chim đại bàng hướng mặt về bên phải. Điều này từng làm dấy lên một lời đồn rằng lá cờ sẽ thay đổi hình đại bàng xoay mặt về hướng nhành ô liu trong thời bình và sẽ hướng mặt về chùm mũi tên trong thời chiến.

Đà điểu

Họa phẩm Tây phương về con đà điểu

Từ thời cổ, đà điểu đã cung cấp các loại thực phẩm thịt, trứng, còn da lông làm quần áo, đồ dùng và đồ trang trí trong gia đình. Thổ dân và các thủy thủ châu Âu đã nhận thấy trứng đà điểu là loại thực phẩm có thể giữ tươi được trong một thời gian dài. Những người da đen Tây Nam Phi đã dùng vỏ trứng còn nguyên để làm cốc đựng nước rất hữu ích và dùng các mảnh vở trứng vỡ để làm các chuỗi hạt đeo cổ. Các loại lọ, cốc bằng vở trứng đà điểu được khắc trổ tinh vi đã có ở Ai Cập và Mesopotamia 5000 năm trước đây, còn ở châu Âu thì sau thời kỳ phục hưng. Ngoài việc săn bắn để lấy thịt, da và lông, đà điểu còn bị người Ai Cập, Hy Lạp và La Mã trưóc đây nuôi nhôt để thuần hóa. Những con đà điểu này từng bị nhốt lại, vỗ béo để cưỡi trong những ngày lễ.

Tây Phi, người ta tin rằng trứng đà điểu có đặc tính ma thuật bảo vệ các ngôi nhà tránh khỏi sét đánh. Ở Nam Ethiopia, trứng đà điểu đặt trên các ngôi mộ mang hàm ý là có người nào đó đã chết, còn từ Tây Á tới Nigeria chúng được coi là biểu tượng của lễ tang và sức mạnh của vũ trụ. Đà điểu còn là hình ảnh đặc trưng trong nghệ thuật khắc đá và văn hóa dân gian thời tiền sử, trong kinh thánh và các cuốn sách cổ. Trong hầm mộ của Tutankhamen còn một bức tranh khắc vua đang săn đà điểu bằng cung tên và xe ngựa. Một bức tranh ghép lớn mô tả cảnh săn bắn đà điểu tại nông trang Piazza Armerina ở Sicily đã từng nổi tiếng vào thế kỷ thứ 14.

Đà điểu có mặt trong các gánh xiếc ở thành La Mã cổ. Trong các cuộc diễu hành, Ptolemaeus Philadelphus đã dùng loại xe ngựa kéo bằng tám con đà điểu. Từ thời đó, người ta đã dựng một bức tượng mô tả hoàng hậu đang cưỡi đà điểu, Hoàng đế La Mã Heliogabalus đã dùng 600 bộ óc đà điểu trong một bữa tiệc. Lông đà điểu từng được dùng để trang trí. Chúng được trang trí trong những chiếc quạt của vua và Đức Giáo Hoàng Assyrian, trên mình ngựa ở các xe ngựa của vaa Pharaon và trên khăn trùm đầu của người dân Hy Lạp, La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng vẫn thường được trang trí trên khăn trùm đầu của các hiệp sĩ thánh chiến châu Phi. Lông đà điểu thường là nét đặc trưng trong chữ tượng hình của người cổ Ai Cập vì chúng có vẻ đẹp cân đối, đã được chọn làm biểu tượng của công lý và lẽ phải.

Chim trĩ

Loài chim trĩ vàng

Chim trĩ là loài chim có đuôi dài, có vẻ đẹp trang nhã, thường xuất hiện phổ biến trong mỹ thuật truyền thống. Theo truyền miệng, chim Trĩ biến thành con sò hay con rắn vào tháng đầu tiên của mùa đông và dựa vào thời điểm chim Trĩ gáy người ta có thể đoán được về lũ lụt, sấm sét và sao chổi. Chim trĩ là một trong những biểu hiệu của bậc đế vương, biểu thị cho Hoàng Hậu. Chim trĩ là biểu tượng của sự son sắc, thủy chung, hình ảnh đôi chim Trĩ biểu tượng cho đôi phu thê có cuộc sống hôn nhân, hạnh phúc viên mãn. Theo sự tích vào đời Vua Hùng, có đem cống qua nước phương bắc một con chim Trĩ (trĩ trắng), khi đến đó, nó luôn luôn tìm cành cây nào có ngọn về phương Nam thì nó mới chịu đậu, ý rằng luôn hướng về quê nhà nên hình ảnh chim Trĩ mang ý nghĩa luôn hướng về cội nguồn, liên tưởng đến hình ảnh quê hương.

Con ngỗng

Những ghi chép đầu tiên về ngỗng thuần hóa cho thấy chúng được nuôi vỗ béo để làm thịt và hiến tế nhưng vào thời La Mã, ngỗng cũng được nuôi để lấy trứng và được lai giống cho những đặc điểm cụ thể như tính cách bình tĩnh hay cho bộ lông đẹp, sang trọng. Phải đến năm 390 trước Công Nguyên thì ngỗng được nuôi để trở thành con vật canh giữ trong đời sống của người La Mã. Chuyện kể rằng tại đền thờ của nữ thần Juno có một bầy ngỗng, chúng được xem là con vật linh thiêng và không ai dám bắt ăn thịt.

Năm 390 trước Công Nguyên, Rome bị người Gaul vây hãm và vào một đêm khuya, lính Gaul đã lẻn leo lên ngọn đồi Capitoline nơi có ngôi đền nữ thần Juno để tấn công bất ngờ Rome. Những con chó được người dân tại Rome nuôi không báo động bởi chúng dễ dàng bị mua chuộc bởi những miếng thịt tươi. Ngoại trừ đám ngỗng, chúng lập tức nhận thấy sự xáo trộn bất thường và bắt đầu kêu to. Nhờ tiếng kêu của bầy ngỗng, lính Rome đã được đánh thức và bảo vệ thành công thành phố của mình. Kể từ sự kiện này thì những con ngỗng được xem là người hùng, là con vật linh thiên và người ta còn tổ chức một lễ hội hàng năm-mặc đồ hóa trang thành ngỗng màu tím màu vàng và đi trêu chọc bêu rếu mấy con chó vì tham ăn mà quên nhiệm vụ canh gác.

Con cò

Hội họa thiếu nữ Ai Cập cổ đại và đàn cò

Việt Nam, hình ảnh con chim gắn liền với cuộc sống làng quê Việt chính là hình ảnh con cò. Hình tượng con cò trong văn hóa Việt có ảnh hưởng sâu đậm trong tâm trí của người dân Việt Nam, nhất là ở nông thôn. Hình tượng con cò được phản ánh rất nhiều qua ca dao và dân ca. Đó là hình ảnh về thân phận của người phụ nữ nông thôn Việt Nam với tấm thân gầy guộc, khẳng khiu, da bọc xương, lặn lội bì bõm, tần tảo, lom khom hay còn gọi là tấm thân cò. Trong ca dao Việt Nam có rất nhiều bài nói về con cò, thậm chí trong dân ca có riêng một điệu hát mang tên là điệu hát Cò lả.

Cánh cò có thể nói đã có mặt từ sớm trong những bài ca dao lâu đời, như một hình ảnh thân thuộc trên những cánh đồng của nông thôn Bắc Bộ: Con cò bay lả bay la/Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng. Cánh cò thường được liên tưởng, ví von với thân phận người phụ nữ mảnh mai vất vả, một nắng hai sương: Con cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non, cánh cò còn gợi nên liên tưởng chung về những thân phận bé mọn, vất vả, nhiều khi không thể tự quyết định số phận của mình mà phải phó thuộc vào bàn tay kẻ khác: Con cò mà đi ăn đêm/Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/Ông ơi ông vớt tôi nao/Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng/Có xáo thì xáo nước trong/Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Con cò trong thơ Tú Xương vẫn được so sánh với hình ảnh vất vả sớm khuya của bà Tú, người "nuôi đủ năm con với một chồng": Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Từ nửa đầu thể kỷ XX, bắt đầu có những chuyển biến về tư duy cảm quan thẩm mỹ trong việc đưa cánh cò vào thi ca cụ thể là câu thơ của Xuân Diệu: Mây biếc về đâu bay gấp gấp/Con cò trên ruộng cánh phân vân. Cho đến bài thơ Con cò nổi tiếng của Chế Lan Viên: Lên rừng xuống bể/Cò sẽ tìm con/Cò mãi yêu con/Con dù lớn vẫn là con của mẹ/Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con[7].

La Tanrrilla là loài chim vạc tạo bùa yêu sống ven bờ sông trung tâm Guatemala và phía Bắc Brazil, loài vạc nhiệt đới có đôi chân dài La Tanrrilla được mệnh danh là chim phù thủy vì xương chân của La Tanrrilla có thể sử dụng làm bùa yêu, để khai thác sức mạnh của loài vạc này, người ta sẽ giết chúng, chôn dưới đất tới khi nào thịt mục nát và bị phân hủy hết. Sau đó, xương chân bên phải của loài này được lấy lên. Vậy là đã có một chiếc bùa yêu hoàn chỉnh. Người sở hữu bùa yêu La Tanrrilla sẽ thuận lợi trong tình trường. Vì cấu trúc xương rỗng nên khi được đào lên, người ta sẽ dùng xương chân này làm ống nhòm và nhìn vào đối tượng mình hướng tới. Sau đó về nhà và ẩn mình 12 giờ đồng hồ và không gặp ai, chắc chắn bạn sẽ giành được con tim người ấy. Ngược lại, nếu sử dụng xương chân trái của La Tanrrilla và lặp lại quy trình tương tự, người bị nhìn sẽ gặp phải những điều không may mắn trong tình yêu.

Con gà

Không chỉ hiện diện trong đời sống của người phương Đông, hình ảnh con gà, đặc biệt là gà trống cũng trở nên quen thuộc với văn hóa phương Tây. Nhắc đến con gà, chúng ta có thể nghĩ đến một loài vật được thuần chủng từ rất lâu, luôn xuất hiện trong cuộc sống thường ngày. Gà trống cũng là biểu tượng phổ biến của mặt trời với tiếng gáy báo hiệu mặt trời mọc. Vì vậy, ở Ấn Độ, gà trống là hiện thân của năng lượng mặt trời, là vật hiệu của thần Skanda (thần chiến tranh). Ở Indonesia, gà mang ý nghĩa quan trọng trong nghi lễ hỏa táng của đạo Hindu. Gà được xem là nơi trú ngụ của những linh hồn xấu xa. Trong buổi lễ, gà bị thắt chân để mọi linh hồn xấu xa xuất hiện trong buổi lễ sẽ nhập vào gà thay vì nhập vào các thành viên trong gia đình.

Một con gà trống ở Nhật BảnBữa tối với món thịt gà

Trong văn hoá Trung Quốc, con gà nằm trong 12 con giáp và nó biểu tượng cho sự trung thực, sức khoẻ và đức tính dũng cảm. Ngoài ra, con vật được cho là mang tính dương, đem lại sự may mắn. Tiếng gáy của gà trống báo hiệu ngày mới, xua tan màn đêm và những thứ tà ma xó xỉnh. Trong tiếng Hoa, "đại kê" (gà trống) gần âm với từ "đại cát" mang ý nghĩa may mắn, tốt lành và vào năm Dậu, người ta kiêng giết thịt gà cúng đầu năm vì tránh "sát kê". Gà là một trong tam sinh, lục súc của người Trung Quốc.

Con gà gần gũi với người nông dân Việt Nam, gà là gia cầm quen thuộc, gắn bó mật thiết với cuộc sống hàng ngày của nhà nông, vì vậy, gà xuất hiện nhiều trong ca dao, tục ngữ Trong lối nói dân dã hằng ngày, hình tượng con gà cũng liên tục xuất hiện. Trong đời sống hiện đại, còn xuất hiện một thuật ngữ mới mang hàm nghĩa ẩn dụ, đó là "gà công nghiệp", từ này nghĩa đen để chỉ giống gà được chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, nghĩa bóng để chỉ những người vốn được nuôi dưỡng, bảo bọc quá mức, đến khi ra đời trở nên ngờ nghệch, thụ động, thiếu trải nghiệm, thiếu khả năng tự xoay xở[21], con gà đôi khi cũng đồng nhất với gái mại dâm (gà móng đỏ)

Hàn Quốc, người ta tin rằng gà trống hiểu rõ về thời gian và là biểu tượng của sự bắt đầu một niềm hy vọng mới hay điềm báo một điều tốt lành. Khi con gà cất tiếng gáy, mọi điều xấu xa, đen đủi đều tan biến. Gà trống là họa tiết quen thuộc trên mái nhà của các cung điện cổ xưa. Trong lễ cưới ở Hàn Quốc, không thể thiếu một đôi gà được bọc bằng vải xanh và vải đỏ đặt ở bàn cưới. Hôn nhân cũng là một chặng đường mới của mỗi một người. Bởi vậy, gà trống với tiếng gáy vang xa báo hiệu một ngày mới, một khởi đầu mới tốt đẹp. Con gà mái hiền lành với niềm tin rằng gia đình sẽ đông con nhiều cháu. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với một xã hội nông nghiệp truyền thống. Gia đình mong rằng cô dâu mới sẽ có thể sinh nở thuận lợi, xây dựng một cuộc sống gia đình bền vững, hạnh phúc.

Nhật Bản, gà được xem là con vật linh thiêng, hình ảnh của chúng gắn liền với những câu chuyện thần thoại. Đối với người Nhật, con gà trống là một loài vật linh thiêng. Người ta cho rằng tiếng gáy của gà trống khiến cho nữ thần Mặt Trời Amaterasu phải bước ra khỏi nơi ẩn náu, tỏa ánh sáng ấm áp muôn nơi. Khả năng chiến đấu của gà trống cũng là một biểu tượng cho sự dũng cảm trong khi đó việc báo hiệu bình minh lại biểu hiện sự đáng tin cậy (giống gà Shamo). Chính vì thế, Nhật Bản còn có riêng một lễ hội Gà trống với tên gọi "Tori no Ichi", thường diễn ra vào tháng 11. Vào thời kỳ Edo, lễ hội mang ý nghĩa cầu bình an, thịnh vượng, sung túc. Thế nhưng, trước đó, người Nhật Bản đã cúng gà vào dịp này với mục đích cảm tạ trời đất, thần linh đã giúp cho mùa màng bội thu.

Chim sẻ

Một con chim sẻMột chú chim nhỏ

Chim sẻ được nhắc đến nhiều trong nền văn hóa dân gian và tín ngưỡng. Hình ảnh chim sẻ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học. Thậm chí loài chim này còn được đề cập trong Kinh thánh. Ngày nay, chim sẻ vẫn được xuất hiện nhiều trong văn học. Chúng được mô tả như người bắt giữ linh hồn trong câu chuyện kinh dị, hoặc loài chim được yêu thích trong các áng văn thơ đậm chất trữ tình. Chim sẻ là đề tài cho các nhà thơ Hy Lạp–La Mã cổ đại và nhiều bản ghi chép tôn giáo.

Trong Kinh Thánh, chúng được đề cập đến như là thứ cúng dường mà những người dân nghèo dâng lên cho Thiên Chúa. Khi này chim sẻ được xem là biểu tượng của tấm lòng thành kính mà con người gửi đến Chúa. Ở một số ghi chép khác, chim sẻ chính là hóa thân của Thiên Chúa và tình yêu mà Ngài dành cho vạn vật. Matthew 10:29: "Không phải cả hai con chim sẻ được bán với giá một đồng tiền sao? Và không một chú chim nào rơi xuống đất từ Cha của bạn".

Chim sẻ là một trong những biểu tượng tình yêu trong thần thoại Hy Lạp. Đây là loài chim linh thiêng gắn liền với nữ thần tình yêu Aphrodite, nó tượng trưng cho một tình yêu đích thực và sự kết nối tâm linh mạnh mẽ nhưng chim sẻ lại không được gắn liền với những ham muốn thể xác. Tại thành Troy, 9 con chim sẻ bị rắn ăn thịt được xem là điềm báo trước cho 9 năm chiến tranh kéo dài ở nơi này. Trong văn hóa dân gian châu Âu, việc một con chim sẻ bay vào nhà được xem là một dấu hiệu dự báo cái chết sắp xảy ra. Khi này người ta nhất định phải bắt và giết chết nó, nếu không cha hoặc mẹ của họ sẽ chết, hoặc người bắt chim sẻ phải giết nó, nếu không người đó sẽ chết. Tuy nhiên, điều may mắn là chim sẻ rất hiếm khi bay vào nhà của người dân và không còn tin tưởng về điềm báo cái chết của chim sẻ.

Người Ai Cập cổ đại đưa hình ảnh của chim sẻ vào hệ thống chữ tượng hình của mình. Nó mang ý nghĩa là "nhỏ", "hẹp", hoặc "xấu xa" và chim sẻ là kẻ bắt giữ linh hồn của người đã khuất và đưa họ đến thế giới bên kia. Do đó, những người thủy thủ thường sẽ xăm hình chim sẻ trên người với hy vọng nếu như họ bỏ xác nơi biển khơi, linh hồn của họ sẽ được chim sẻ đưa sang thế giới bên kia. Tại Indonesia, việc một con chim sẻ bay vào nhà là điềm báo may mắn, và sẽ đặc biệt may mắn hơn khi nó làm tổ trong nhà, có thể một đám cưới sẽ sớm được diễn ra, hoặc người phụ nữ nhìn thấy chim sẻ trong ngày lễ tình yêu sẽ có được hạnh phúc sau khi kết hôn với một người đàn ông nghèo, tiếng kêu của chim sẻ được cho là sẽ mang đến những cơn mưa cho các cánh đồng khô cằn.

Chim Kơtia

Tượng vẹt ở Đà Nẵng, vẹt chính là loài chim Kơ-tia ở Tây Nguyên

Chim Kơtia/Ktiă theo tiếng người Kinh gọi chính là con vẹt hay con két, đây là loài chim thường kéo về vào mùa thu, mùa xuân, loài chim này gắn liền với cuộc sống sinh hoạt và đặc biệt là số lượng rất đông ở các buôn làng Tây Nguyên, đây cũng là là loài chim ám ảnh đối với mùa màng của bà con Tây Nguyên[22]. Nhiều ngường thường đoán chim Kơtia là loài chim thân thiết với đồng bào Tây Nguyên nhưng Kơ-tia không phải loài chim đồng bào Tây Nguyên yêu mến mà ngược lại. Trước đây, Kơ-tia sống thành đàn rất nhiều, chúng có cách bay rất đặc biệt là kiểu vút lên cao rồi nghiêng cánh lao thẳng xuống đất, rất hùng dũng, đồng thời màu lông sặc sỡ khiến cánh lính trẻ thích thú và tạo nguồn cảm hứng thi ca. Mỗi lần nghiêng cánh là lúc chúng tìm thức ăn, mà Kơ-tia toàn ăn nông sản trên nương nên đồng bào không thích loài chim này, tìm đủ cách xua đuổi[23]

Chim Kơ-tia đã gắn với hình ảnh "chim kơtia bay tới" Đắk Krông qua điệp khúc "Chim kơtia bay tới, nghiêng cánh chào Đắk Krông" (bài hát "Đắk Krông mùa xuân về"/nhạc sĩ Tố Hải), cái tên kơtia khá dễ nhớ và gắn liền với hai bài hát "Ơi chim Ktiă" của nhạc sĩ Y Sơn Niê và Đắk Krông mùa xuân về của nhạc sĩ Tố Hải[22]. Việc ra đời cây đàn T’rưng cũng có liên quan đến loài chim kơtia,ngày xưa khi chưa có nhiều cách để đuổi chim khỏi nương rẫy, người dân tộc Ba Na và người dân tộc Jarai thường dùng cành khô gõ vào ống cây lồ ô, khi gõ mạnh thì phát ra âm thanh lớn khiến chim hoảng sợ bỏ đi. Rồi dần dần người ta phát hiện chất liệu âm thanh đặc biệt của dụng cụ đuổi chim này và chế tác nên cây đàn T’rưng[22].

Đối với người Ê Đê thì chim kơtia không phải là con vật linh thiêng mà ngược lại, người Ê Đê thường tìm cách bắt kơtia và coi đó là loài chim gây hại. Kơtia cũng không biết hót mà âm thanh loài chim này phát ra chỉ là tiếng kêu rất khó nghe, loài chim này gắn liền trong cuộc sống của người dân với hình ảnh con vật gây hại, thường bay từng đàn và kêu inh ỏi náo động ở những nơi chúng đi qua. Dù được coi là loài chim gây hại đối với dân trồng bắp lúa trên nương rẫy nhưng kơtia lại được người Kinh rất yêu thích vì có vẻ bề ngoài bắt mắt, mỏ cong vút, chân ngắn và lông màu xanh tươi, có màu sắc sặc sỡ, nếu sau một thời gian nuôi và chịu khó tập luyện, kơtia có thể nhái được một số tiếng người. Những chú chim sau khi đánh bẫy được buộc chân vào cành cây rồi chờ người đến mua, số chim người dân bày bán ở đường chính là chim kơtia[22].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hình tượng loài chim trong văn hóa http://www.baodaklak.vn/channel/9803/202010/bieu-t... http://daidoanket.vn/van-hoa/luan-ve-nhung-loai-ch... http://m.tienphong.vn/van-nghe/chim-ko-tia-va-chuy... http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky... http://vtc.vn/giai-ma-diem-bao-khi-chim-bay-ran-bo... https://vnexpress.net/du-lich/y-nghia-bieu-tuong-c... https://en.wikipedia.org/wiki/Bee_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Cicada_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Coyote_(mythology) https://en.wikipedia.org/wiki/Emmet_(heraldry)